Thoát vị là gì? Các công bố khoa học về Thoát vị

Thoát vị là tình trạng một mô phần bên trong cơ thể, thường là một khối tạp chất hoặc một cơ quan, di chuyển khỏi vị trí bình thường của nó. Thoát vị có thể xảy...

Thoát vị là tình trạng một mô phần bên trong cơ thể, thường là một khối tạp chất hoặc một cơ quan, di chuyển khỏi vị trí bình thường của nó. Thoát vị có thể xảy ra ở nhiều bộ phận khác nhau của cơ thể, bao gồm xương, khớp, dạ dày, tử cung, ruột, gan, túi mật, mắt, trái tim, phổi và nhược cấu. Sự thoát vị có thể gây ra đau đớn, bất tiện và gây trở ngại cho hoạt động bình thường của cơ thể.
Thoát vị xảy ra khi một cơ quan, mô hoặc cấu trúc trong cơ thể di chuyển khỏi vị trí bình thường của nó. Đây thường là một vấn đề y tế và cần được điều trị để tránh gây ra biến chứng và đau đớn.

Dưới đây là một số loại thoát vị phổ biến:

1. Thoát vị xương: Thoát vị xương xảy ra khi xương bị di chuyển khỏi vị trí của nó. Ví dụ, thoát vị vai, thoát vị cổ tay, thoát vị khớp háng là những ví dụ phổ biến. Nguyên nhân của thoát vị xương có thể là do tai nạn, chấn thương hoặc bệnh lý liên quan đến xương và khớp.

2. Thoát vị đĩa đệm: Đĩa đệm là một cấu trúc trong xương sống giữa các đốt sống. Thoát vị đĩa đệm xảy ra khi đĩa đệm di chuyển khỏi vị trí bình thường của nó, thường là do căng thẳng, chấn thương hoặc lão hóa. Điều này có thể gây đau lưng, nhức mỏi và tê, ảnh hưởng đến hoạt động hàng ngày của người bị.

3. Thoát vị dạ dày: Thoát vị dạ dày xảy ra khi phần của dạ dày di chuyển hoặc xuyên qua lỗ hở trong cơ quan khác trong hệ tiêu hóa. Điều này có thể gây ra nhiều triệu chứng như đau bụng, buồn nôn, nôn mửa và khó tiêu.

4. Thoát vị tử cung: Thoát vị tử cung xảy ra khi tử cung di chuyển khỏi vị trí bình thường của nó. Đây là một vấn đề thường gặp ở phụ nữ sau sinh hoặc trong giai đoạn mãn kinh. Triệu chứng thoát vị tử cung gồm đau bụng dưới, yếu tố bóp tử cung và ảnh hưởng đến chức năng sinh sản.

5. Thoát vị gan: Thoát vị gan xảy ra khi gan di chuyển khỏi vùng bảo vệ của nó trong hốc ngực. Đây là một tình trạng hiếm gặp và thường là kết quả của chấn thương hoặc dị tật gan.

Thoát vị nếu không được xử lý đúng cách có thể gây ra biến chứng nguy hiểm cho sức khỏe và yêu cầu điều trị kịp thời từ các chuyên gia y tế. Việc điều trị tùy thuộc vào loại thoát vị và mức độ nghiêm trọng. Thông thường, điều trị bao gồm đặt lại cơ quan, mô hoặc cấu trúc vào vị trí bình thường, sử dụng hỗ trợ và áp lực nếu cần, và thậm chí phẫu thuật trong những trường hợp nghiêm trọng.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "thoát vị":

Điều Hòa Tín Hiệu Thụ Thể VEGF Trong Thoát Vị Khối U Dịch bởi AI
Oncologist - Tập 5 Số S1 - Trang 3-10 - 2000
Tóm tắt

Sự phát triển của các khối u ở người và sự hình thành di căn phụ thuộc vào sự hình thành mạch máu mới de novo. Quá trình hình thành các mạch máu mới được điều chỉnh chặt chẽ bởi các yếu tố tăng trưởng cụ thể nhắm vào các thụ thể tyrosine kinase (RTKs). Yếu tố tăng trưởng nội mạch (VEGF) và RTK Flk-1/KDR đã được xác định là con đường tín hiệu chính yếu tố cụ thể trên tế bào nội mạch cần thiết cho sự hình thành mạch máu bệnh lý, bao gồm việc hình thành mạch mới trong khối u. Việc ức chế con đường tín hiệu tyrosine kinase VEGF ngăn chặn sự hình thành mạch máu mới trong các khối u đang phát triển, dẫn đến tình trạng ngừng tăng trưởng hoặc suy thoái của khối u. Những tiến bộ trong việc hiểu biết về sinh học của quá trình sinh mạch đã dẫn đến sự phát triển của một số phương thức điều trị để ức chế con đường tín hiệu tyrosine kinase VEGF. Nhiều phương thức trong số này đang được nghiên cứu trong các thử nghiệm lâm sàng để đánh giá khả năng điều trị ung thư ở người.

#VEGF #tyrosine kinase #angiogenesis #tumor growth #clinical studies
Một Báo Cáo Đánh Giá Các Hệ Thống Thoát Nước Đô Thị Bền Vững Xem Xét Tác Động Của Biến Đổi Khí Hậu Và Đô Thị Hóa Dịch bởi AI
MDPI AG - Tập 6 Số 4 - Trang 976-992

Biến đổi khí hậu và đô thị hóa đang kết hợp lại để thách thức cơ sở hạ tầng thoát nước đô thị do những tác động tiêu cực của chúng đến các hiện tượng thời tiết cực đoan và môi trường của các khu vực đô thị. Các hệ thống thoát nước bền vững đã thu hút được sự quan tâm ngày càng tăng của công chúng trong những năm gần đây, nhờ vào những tác động tích cực của chúng về chất lượng và khối lượng nước, cũng như những tiện ích giải trí bổ sung được cảm nhận trong cảnh quan đô thị. Bài báo này xem xét tiến bộ gần đây trong phát triển thoát nước bền vững dựa trên tài liệu từ các lĩnh vực chuyên môn khác nhau. Sau khi trình bày các yếu tố chính và tiêu chí thiết kế thoát nước bền vững, các thiết bị và ví dụ về hệ thống thoát nước bền vững được giới thiệu. Các phương pháp mô hình tiên tiến và các công cụ hỗ trợ quyết định để đánh giá các phương án bền vững được thảo luận và so sánh. Bài báo cũng khám phá một số hạn chế và khó khăn trong việc áp dụng các giải pháp sáng tạo và đề xuất một cách tiếp cận tích hợp và liên ngành cho thiết kế thoát nước bền vững.

#Biến đổi khí hậu #Đô thị hóa #Hệ thống thoát nước bền vững #Cơ sở hạ tầng đô thị
Tái phẫu thuật sau phẫu thuật đĩa đệm thắt lưng: Kết quả ở 130 trường hợp Dịch bởi AI
Acta Neurochirurgica - Tập 122 - Trang 102-104 - 1993
Trong một loạt 1850 trường hợp được phẫu thuật do thoát vị đĩa đệm thắt lưng, 130 trường hợp đã trải qua phẫu thuật lại do triệu chứng dai dẳng hoặc tái phát. Tỷ lệ thành công của phẫu thuật lại đạt 62%. Tiên lượng của phẫu thuật lại không liên quan đến triệu chứng và dấu hiệu lâm sàng đặc biệt mà chỉ liên quan đến phát hiện trong phẫu thuật. Các trường hợp thoát vị ở các mức độ khác nhau và tái phát thoát vị đĩa đệm thắt lưng cho kết quả tốt nhất (xuất sắc ở 98% và 54% tương ứng), nhưng chỉ các hình thành sẹo cho kết quả kém hơn nhiều (chỉ 38% đạt kết quả xuất sắc). Các phát hiện từ chụp cắt lớp vi tính (CT) ít đáng tin cậy hơn trong việc phân biệt giữa thoát vị đĩa đệm và xơ hóa so với chụp cộng hưởng từ (MR). Do đó, MR là phương pháp chẩn đoán được ưa chuộng trong những trường hợp này, và chỉ các hình thành sẹo nên được coi là chống chỉ định cho phẫu thuật lại.
#tái phẫu thuật #thoát vị đĩa đệm thắt lưng #kết quả #chẩn đoán #chụp cộng hưởng từ
Đánh giá độ dung nạp và hiệu quả giảm đau của dung dịch paracetamol tiêm tĩnh mạch mới ở trẻ em sau phẫu thuật thoát vị bẹn Dịch bởi AI
Paediatric Anaesthesia - Tập 15 Số 8 - Trang 663-670 - 2005
Tóm tắt

Đề cương: Một công thức tiêm tĩnh mạch (i.v.) mới của paracetamol và propacetamol (tiền dược của paracetamol) đã được so sánh để xác định độ dung nạp và hiệu quả giảm đau tương đối trong 6 giờ đầu tiên sau khi phẫu thuật sửa thoát vị bẹn được thực hiện dưới gây mê toàn thân kết hợp với chẹn ilioinguinal ở trẻ em.

Phương pháp: Một tổng số 183 bệnh nhân ASA I hoặc II, độ tuổi 1–12 tuổi, nhập viện để phẫu thuật sửa thoát vị bẹn đơn bên đã được ngẫu nhiên phân ra nhận liệu pháp paracetamol tiêm tĩnh mạch 15 mg·kg−1 (n = 95) hoặc propacetamol 30 mg·kg−1 (n = 88) nhằm giảm đau sau phẫu thuật ngay khi cường độ đau cao hơn 30 trên thang điểm analog thị giác 100 mm. Tất cả bệnh nhân đều được đánh giá về hiệu quả và độ dung nạp. Hiệu quả được đánh giá giữa 15 phút và 6 giờ sau khi bắt đầu truyền trong 15 phút.

#paracetamol #propacetamol #điều trị giảm đau #thoát vị bẹn #trẻ em
Ảnh hưởng của việc tiếp xúc với dimethoate ở nồng độ dưới ngưỡng gây chết đối với hành vi di chuyển của loài collembola Folsomia candida (Isotomidae) Dịch bởi AI
Environmental Toxicology and Chemistry - Tập 14 Số 9 - Trang 1587-1590 - 1995
Tóm tắt

Hành vi di chuyển của loài collembola Folsomia candida Willem 1902 (Isotomidae) đã được đo tự động trong quá trình tiếp xúc với đất được xử lý bằng nồng độ dimethoate dưới ngưỡng gây chết. Trong suốt 36 giờ đo lường, có sự thay đổi đáng kể về quãng đường đi được, vận tốc trung bình và tỷ lệ quay. Kết luận cho thấy rằng những chỉ số này cung cấp một thước đo nhạy cảm đối với stress do độc tố.

Ốc sên vườn (Helix aspersa) như một chỉ thị sinh học về sự tiếp xúc với các hợp chất phospho hữu cơ: Ảnh hưởng của dimethoate đến sự sống sót, tăng trưởng và hoạt động acetylcholinesterase Dịch bởi AI
Environmental Toxicology and Chemistry - Tập 20 Số 9 - Trang 1951-1957 - 2001
Tóm tắt

Ốc sên vườn (Helix aspersa) hiện đang được sử dụng như một chỉ thị sinh học cho ô nhiễm kim loại. Mục tiêu của chúng tôi là mở rộng việc sử dụng nó cho các hóa chất hữu cơ bằng cách nghiên cứu tác động và nồng độ mô của thuốc trừ sâu phospho hữu cơ dimethoate sau khi tiêu thụ qua chế độ ăn uống. Sau bốn tuần tiếp xúc với các liều thuốc trừ sâu tăng dần trong chế độ ăn, nồng độ độc tính trung bình (LC50) được xác định là 3,700 μg/g thức ăn. Các dấu hiệu lâm sàng chỉ ra nồng độ không quan sát thấy tác động là 100 μg/g và nồng độ quan sát thấy tác động thấp nhất là 250 μg/g. Các tham số tăng trưởng giảm khi mức độ tiếp xúc với thuốc trừ sâu tăng. Nồng độ hiệu quả trung bình (EC50), được đánh giá dựa trên cả đường kính vỏ và ức chế khối lượng khô, lần lượt là 665 và 424 μg/g, và EC10 là 180 và 145 μg/g, tương ứng. Sự tích lũy trong các tạng nội tạng liên quan đến lượng dimethoate trong thức ăn. Các yếu tố sinh khối tập trung rất thấp (>6 × 10−3). Hoạt động acetylcholinesterase (AChE) giảm mạnh (80% từ 250 μg/g). Kết luận, chúng tôi đã chứng minh rằng loài H. aspersa có thể là một sinh vật chỉ thị hữu ích cho các cuộc khảo sát ô nhiễm phospho hữu cơ. Trong số các tác động được đo, việc ức chế hoạt động AChE và các dấu hiệu lâm sàng là nhạy cảm nhất, tiếp theo là các tham số tăng trưởng. Những kết quả này xác nhận sự phù hợp của ốc sên vườn trong việc phát triển các bài kiểm tra độc tính dưới ngưỡng gây chết sử dụng các sinh vật tiêu thụ chính và các sinh vật trên mặt đất.

Phẫu thuật bảo tồn trong hẹp thực quản do trào ngược kết hợp với thoát vị tâm vị Dịch bởi AI
British Journal of Surgery - Tập 66 Số 4 - Trang 221-225 - 2005
Tóm tắt

Trong vòng 7 năm, 130 bệnh nhân bị hẹp thực quản do trào ngược thực quản lâu dài và thoát vị tâm vị đã được giới thiệu phẫu thuật. Tám mươi bảy trong số những bệnh nhân này đã trải qua phẫu thuật bảo tồn bao gồm chủ yếu là mở rộng ngược dòng qua dạ dày trong phẫu thuật kết hợp với một trong hai loại phẫu thuật chống trào ngược: ở 34 bệnh nhân (nhóm 1) đã thực hiện phẫu thuật theo kiểu Allison cho thoát vị tâm vị, và ở 53 bệnh nhân còn lại (nhóm 2), phẫu thuật quấn dạ dày theo kiểu Nissen đã được thực hiện. Trong số 22 bệnh nhân trong nhóm sau, điểm nối thực quản-dạ dày không thể đưa xuống bụng mặc dù đã thực hiện nhiều biện pháp di động thực quản và việc quấn dạ dày cuối cùng đã được đặt trên cơ hoành.

Từ những kết quả thành công ở cả hai nhóm (đặc biệt là nhóm 2), kết luận rằng phẫu thuật bảo tồn nên được xem xét trong các trường hợp thoát vị tâm vị có hẹp do trào ngược mà có thể xử lý bằng phương pháp mở rộng trong phẫu thuật.

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT NỘI SOI THOÁT VỊ BẸN Ở TRẺ EM CÓ SỬ DỤNG KIM XUYÊN QUA DA TỰ CHẾ
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 510 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị nội soi thoát vị bẹn trẻ em có sử dụng kim xuyên da tự chế tại bệnh viện hữu nghị Việt Đức từ tháng 2 đến tháng 7 năm 2021. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiền cứu theo dõi dọc không nhóm chứng. 42 bệnh nhi dưới 16 tuổi, không phân biệt giới tính, được chẩn đoán là thoát vị bẹn được phẫu thuật nội soi. Kết quả: Thời gian mổ trung bình của bệnh nhi là 21,55 ± 6,38 phút. Có 30,9% bệnh nhi phát hiện thoát vị đối bên trong khi mổ. Không ghi nhận tai biến nào trong mổ. Thời gian nằm viện trung bình của bệnh nhi là 1 ngày. Hậu phẫu: 100% bệnh nhi không có biến chứng. Sau phẫu thuật 3 tháng: không có trường hợp tái phát, vết mổ đẹp, 97,6% bố mẹ bệnh nhi hài lòng về vết mổ thẩm. Kết luận: Phẫu thuật nội soi thoát vị bẹn ở trẻ em có sử dụng kim xuyên qua da tự chế là một phương pháp an toàn, hiệu quả.
#Thoát vị bẹn #phẫu thuật nội soi #trẻ em
Tổng số: 327   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10